Mục lục

Những quan điểm, chủ trương của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Yên Bái nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới

Công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cổ vũ mạnh mẽ Đảng bộ và nhân dân Yên Bái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, phát huy thuận lợi, thời cơ, nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ, thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh.

Để đẩy mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu: Phát triển mạnh và tiến bộ rõ nét về cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và kinh tế nông thôn; phát triển sản xuất công nghiệp với tôc độ tăng trưởng cao, liên tục và vững chắc; đầu tư cơ sở hạ tầng đi trước một bước, có trọng điểm và nâng cao hiệu quả đầu tư; phát triển nhanh kinh tế dịch vụ, ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng du lịch và các ngành dịch vụ công cộng; phát triển mạnh các thành phần kinh tế.

Nhận thức sâu sắc sản xuất nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế, tỉnh đã xây dựng nhiều chính sách về nông nghiệp, nông thôn, trong đó, tập trung cho vùng cao, vùng khó khăn với mục tiêu chuyển dịch nhanh kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa ở vùng thấp; đảm bảo an ninh lương thực ở vùng cao; đưa nhanh khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, xúc tiến thương mại, công tác thú y và các dịch vụ kỹ thuật ở nông thôn; lồng ghép các chương trình, dự án theo chương trình mục tiêu quốc gia và ngân sách của tỉnh để đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển khá toàn diện, quy mô sản xuất hàng hóa ngày một tăng. Giá trị sản xuất toàn ngành bình quân tăng 5,64%/năm.

Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo tập trung khai thác các tiềm năng, lợi thế của tỉnh về tài nguyên và lao động để phát triển công nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất; đưa vào sản xuất hai nhà máy xi măng lò quay với tổng công suất trên 1,2 triệu tấn/năm, các nhà máy chế biến đá bột, đá hạt với tổng công suất 450 nghìn tấn/năm, một số nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ; phát triển mạnh các cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm sản, khai thác có hiệu quả nguồn nguyên liệu tại chỗ. Quy hoạch, xây dựng 5 khu và 12 cụm công nghiệp tập trung, với tổng diện tích trên 2.000 ha; đã có 53 dự án đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 2.355 tỷ đồng; giá trị sản xuất ở các khu, cụm công nghiệp chiếm 10,9% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Tổng giá trị sản xuất tăng từ 1.061.687 triệu đồng lên 2.850.000 triệu đồng (theo giá so sánh năm 1994), tăng 268,4%. Phát triển tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống ở nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn.

Ngành thương mại, dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, sản phẩm đa dạng, chất lượng được nâng lên. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2010 gấp 3 lần so với năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 9,3 triệu USD năm 2005 lên 28,5 triệu USD năm 2010 (gấp 3,1 lần năm 2005). Dịch vụ vận tải, bưu chính, viễn thông, điện, nước… phát triển nhanh, phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội. Năm 2010, giá trị sản xuất của ngành vận tải và bưu điện (theo giá so sánh năm l994) đạt 351.860 triệu đồng, gấp 1,56 lần năm 2005.

Công tác văn hóa – xã hội được tỉnh quan tâm chú trọng, ngành giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, khoa học và công nghệ được coi trọng. Hệ thống giáo dục tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Mạng lưới trường lớp, các ngành học, bậc học tiếp tục được quy hoạch phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục trên từng địa bàn, thu hút tối đa số người trong độ tuổi ra lớp, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, từng bước hướng tới xây dựng xã hội học tập, trong đó, đã chú trọng xây dựng trường phổ thông dân tộc bán trú ở vùng cao. Năm 2010, tỉnh Yên Bái đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi với 169 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn; toàn tỉnh có 180/180 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được cải thiện; công tác dân số, bảo vệ, chăm sóc trẻ em có tiến bộ. Năm 2010, toàn tỉnh có 219 cơ sở y tế (trong đó, có 17 bệnh viện, 19 phòng khám khu vực, 180 trạm y tế cấp xã và 03 trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp), 2.688 giường bệnh, 2.404 cán bộ y tế, trong đó số cán bộ y tế làm việc ở các trạm y tế xã, phường là 1.100 người; bình quân có 7,18 bác sỹ/1 vạn dân; tỷ lệ trạm y tế xã, phường có bác sỹ là 60%. Đến năm 2010, có 141 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Kinh tế phát triển, tạo điều kiện để giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tốt các chính sách đối với người có công và an sinh xã hội đạt nhiều kết quả tích cực…

Những kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ qua đã tạo tiền đề cho Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh cùng với nhân dân Yên Bái tiếp tục đẩy mạnh phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh lần thứ VII (nhiệm kỳ 2010-2015), diễn ra từ ngày 18 đến ngày 19-8-2010 tại Trung tâm hội nghị tỉnh. Đại hội tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2005-2010). Đồng thời, Đại hội nhận định tình hình của tỉnh trong nhiệm kỳ tiếp theo, trong đó nhấn mạnh, nhiệm kỳ 2010-2015, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Song Đảng bộ có được thuận lợi căn bản là luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; các đồng chí cấp ủy hầu hết đều giữ chức vụ chủ chốt ở các cơ quan, đơn vị của tỉnh, có năng lực và kinh nghiệm thực tế được cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm. Điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh đã có bước phát triển nhanh và toàn diện. Cán bộ, đảng viên của Đảng bộ khối có trình độ nhận thức về lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Từ những thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức cả về khách quan và chủ quan, đòi hỏi Đảng bộ phải có quyết tâm cao, tiếp tục đổi mới tư duy, tập trung lãnh đạo hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Trên cơ sở đánh giá và nhận định tình hình thực tế, Đại hội thống nhất đề ra mục tiêu chung của Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh và các chi, đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện, phát huy tốt vai trò hạt nhân chính trị, tập trung lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng các cấp, góp phần xây dựng nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh và bền vững”.

Từ những định hướng chung, Đại hội đề ra những mục tiêu cụ thể:

  1. Hàng năm, 100% cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ do tỉnh và bộ, ngành Trung ương giao.
  2. 100% tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nghiên cứu, học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
  3. Phấn đấu đến 2015, trên 85% cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên; 75% có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
  4. Hàng năm, kết nạp 120 đảng viên mới trở lên, phấn đấu cả nhiệm kỳ kết nạp 600 đảng viên mới trở lên.
  5. Hàng năm, có 95% trở lên số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
  6. Hàng năm, có 97% trở lên số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ.
  7. Hàng năm, Đảng uỷ khối kiểm tra, giám sát 20% số tổ chức cơ sở đảng; 100% cấp uỷ cơ sở tự kiểm tra, giám sát; 30% số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở được kiểm tra, giám sát.
  8. Hàng năm, có 98% trở lên số tổ chức đoàn thể cơ sở đạt vững mạnh, thu hút 100 % quần chúng tham gia sinh hoạt trong các tổ chức đoàn thể.
  9. Hàng năm, 100% tổ chức Đảng lãnh đạo xây dựng cơ quan an toàn; 98% trở lên cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn Đơn vị văn hoá.

Để hoàn thành tốt các mục tiêu, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp:

Thứ nhất, Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống cách mạng của Đảng và dân tộc. Tổ chức học tập kịp thời, đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết sát thực tế cơ sở; chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết đạt hiệu quả.

Chủ động nắm bắt và phản ánh kịp thời tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và dư luận xã hội để lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng đạt hiệu quả, định hướng tư tưởng kịp thời; nâng cao chất lượng công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và các biểu hiện tiêu cực khác; chống các biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tư tưởng trì trệ, bảo thủ, thiếu tinh thần trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh, gắn với chỉ đạo và thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, hiệu quả.

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, sơ tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Chỉ thị số 10 – CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 05 – HD/BTC TW của Ban Tổ chức Trung ương.

Tăng cường công tác quản lý đảng viên ở 3 nơi (nơi công tác, nơi đến công tác và nơi cư trú). Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, chú trọng nâng cao chất lượng, tăng tỷ lệ nữ, tuổi trẻ, cán bộ khoa học – kỹ thuật, phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kết nạp đảng viên mới trong nhiệm kỳ 2010 – 2015 đã đề ra.

Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ theo quy hoạch, thực hiện tốt chính sách cán bộ. Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp uỷ cơ sở thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng theo Điều lệ Đảng quy định. Bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho lực lượng làm công tác kiểm tra, giám sát kịp thời ngay từ đầu nhiệm kỳ.

Củng cố, kiện toàn Uỷ ban kiểm tra các cấp đảm bảo số lượng, nâng cao chất lượng. Các chi bộ cơ sở đều có đồng chí cấp uỷ viên phụ trách công tác kiểm tra, giám sát. Cấp uỷ và Uỷ ban kiểm tra xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá và hàng năm, lãnh đạo tổ chức thực hiện kịp thời, đầy đủ theo chương trình, kế hoạch đề ra.

Tăng cường kiểm tra định kỳ và kiểm tra chuyên đề. Tập trung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên… Tăng cường công tác giám sát thường xuyên để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ cơ sở. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các đơn thư tố cáo, khiếu nại đối với tổ chức đảng và đảng viên. Xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm.

Thứ tư, cấp uỷ các cấp thường xuyên lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, để phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh, bức xúc đang đặt ra trong từng cơ quan, đơn vị mà quần chúng quan tâm; có chế độ định kỳ kiểm tra, giám sát sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm các mặt công tác nhằm phát huy uu điểm, khắc phục kịp thời thiếu sót, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo.

Thứ năm, nâng cao chất lượng hoạt động của công tác dân vận và các đoàn thể chính trị xã hội. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, thực hiện tốt công tác Dân vận chính quyền, xây dựng và nhân rộng mô hình “Dân vận khéo”, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, định hướng hoạt động của các đoàn thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể hoạt động.

Các đoàn thể khối tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, bảo đảm tính thiết thực, phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, tập trung thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của cơ quan, đơn vị.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khoá VII, nhiệm kỳ 2010-2015 gồm 25 đồng chí. Đồng chí Hà Thị Hải được bầu giữ chức Bí thư, đồng chí Lê Quý Hải được bầu làm Phó Bí thư Thường trực và đồng chí Đồng Công Thuận làm Phó Bí thư Đảng ủy Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015.

Phát huy kết quả đạt được, với truyền thống đoàn kết, khắc phục khó khăn, Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, xây dựng Yên Bái trở thành tỉnh mạnh trong cả nước.

Với thắng lợi của Đại hội Đảng bộ các cấp, trong không khí nhân dân cả nước và tỉnh Yên Bái đang đẩy mạnh thi đua đạt được nhiều kết quả tích cực, từ ngày 21 đến ngày 23-10-2010 tại Trung tâm Hội nghị tỉnh, Đảng bộ tỉnh Yên Bái tiến hành Đại hội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015 với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ, đoàn kết; khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế; phấn đấu đưa Yên Bải trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng trung du và miền núi phía Bắc”.

Với tinh thần đoàn kết, nghiêm túc, Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá những mặt thuận lợi, khó khăn, những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, trên cơ sở đó, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2010-2015. Trong đó, xác định mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ; phát huy truyền thống đoàn kết, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, văn hóa – xã hội phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tăng cường, củng cố, xây dựng quốc phòng – an ninh vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; xây dựng Yên Bái trở thành tỉnh phát triển khá vào năm 2015, tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành trung tâm kinh tế của vùng Tây Bắc”[1].

Từ mục tiêu tổng quát, Đại hội xác định là các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2015:

Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 2010-2015 đạt 13,5% trở lên. Trong đó: Nông lâm nghiệp 5,4%; công nghiệp – xây dựng 17,1%; dịch vụ 14,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25 triệu đồng. Tổng thu cân đối ngân sách trên địa bàn đến năm 2015 đạt 1.700 tỷ đồng trở lên. Tổng vốn đầu tư phát triển trong 5 năm đạt 34.000 tỷ đồng.

Về văn hoá – xã hội: Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 đạt 45%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm 4%. Hoàn thành và giữ vững 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia năm 2015 là 35%. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2015 là 89%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 19%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,086%. Đến năm 2015, có 85% hộ gia đình; 60% thôn, bản, tổ dân phố; 95% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hóa. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới là 15 – 20%.

Về môi trường: Đến năm 2015, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 63,5%; tỷ lệ hộ nông dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 85%.

Về xây dựng Đảng và hệ thng chính trị: Hằng năm, có 80% số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh; chính quyền xã, phường, thị trấn vững mạnh đạt 80%; kết nạp 1.800 đảng viên trở lên, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ 85% trở lên; vận động được 75% quần chúng vào các tổ chức đoàn thể[2].

Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đại hội đã đề ra và định hướng một cách toàn diện, sâu sắc mục tiêu phát triển của tỉnh trong nhiệm kỳ 2010 – 2015 là xây dựng tỉnh Yên Bái phát triển toàn diện, phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.

Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái là những định hướng cơ bản để Đảng bộ Khối vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, đề ra những giải pháp thiết thực, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010-2015.

Ngay sau Đại hội, Đảng uỷ khối đã tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng tới đội ngũ cán bộ chủ chốt, cấp uỷ các chi bộ, Thường vụ các đoàn thể chính trị và triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, trọng tâm là thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của đảng bộ.

Đảng ủy Khối nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc tổ chức, phổ biến, quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp. Coi đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, là nhiệm vụ trọng tâm của của Đảng ủy Khối.

Trong lúc Đảng bộ Khối đang triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, ngày 23-3-2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Quy định số 293-QĐ/TW quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh, tháng 10-2010, Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Yên Bái đổi tên thành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Yên Bái.

Đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của tỉnh, để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh thành lập là bước ngoặt quan trọng trong chặng đường lịch sử xây dựng và phát triển; là dấu mốc quan trọng để lãnh đạo các chi, đảng bộ trực thuộc hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, tr.64-65

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, tr.65-67.

Thiết kế bởi VNPT